Câu lạc bộ West Ham United – “Kẻ mạnh độc nhất” trong thế giới bóng đá
Với phong cách chơi bóng đầy hấp dẫn, trang phục màu xanh và đỏ rượu và giai điệu bắt tai, West Ham United chắc chắn là một kẻ mạnh độc nhất trong thế giới bóng đá. Họ có tiếng là chuyên gia giành cúp – ngoài việc giành Cúp Winners ‘Cup năm 1965, họ còn giành được ba danh hiệu FA Cup. Kể từ đầu những năm 50, câu lạc bộ đã được biết đến như là “Học viện bóng đá”, với nhiều cầu thủ trẻ và tài năng vượt trội.
Thông tin cơ bản
Thành lập: 1895
Quốc gia: England
Thành phố: London
Sân nhà
Hermit Road (1895-1896)
Browning Road (1896-1897)
Memorial Recreation Ground (1897-1904)
Boleyn Ground (1904-2012)
Olympic Stadium (2012-)
Danh hiệu chính
FA Cup: 3
UEFA Cup Winners’ Cup: 1
Cầu thủ nổi bật
Vic Watson, Geoff Hurst, Trevor Brooking, Bobby Moore, Martin Peters, Paul Ince, Rio Ferdinand, Paolo Di Canio, Stuart Pearce, Teddy Sheringham, Frank Lampard, Joe Cole, Carlos Tevez, Scott Parker, Winston Reid
Thành tích ghi lại
Cầu thủ chơi nhiều trận nhất: Billy Bonds (799)
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu: Vic Watson (326)
West Ham vào năm 2015.
Lịch sử
Mặc dù câu lạc bộ đã được cải tổ thành West Ham United FC vào đầu thế kỷ XX, nhưng chính xác là đội được thành lập vào năm 1885 và là nền tảng của Thames Ironworks FC. Câu lạc bộ được thành lập bởi Arnold Hills, giám đốc của bộ phận đóng tàu Thames Ironworks; với mục đích cải thiện mối quan hệ giữa ban quản lý và công nhân. West Ham khởi đầu khá khiêm tốn, phần lớn thời gian hoạt động như là một nhóm làm việc trong lịch sử của mình, điều này thể hiện rõ nhất trong các biệt danh phổ biến nhất của câu lạc bộ (The Hammer và The Irons), cũng như trong logo của câu lạc bộ, nơi vẫn có hình ảnh một cặp đinh tán và búa chéo nhau.
Trong những năm đầu câu lạc bộ chơi ở London League, Southern League và Western League. Năm 1919, West Ham trở thành thành viên của Liên đoàn bóng đá và tham gia vào đội hạng Second Division mùa đầu tiên sau chiến tranh. Bốn năm sau, đội được thăng hạng lên First Division. Cùng năm đó, họ đã tham gia vào một trận đấu huyền thoại. Đó là trận chung kết FA Cup đầu tiên diễn ra trên sân vận động Wembley và số người tham dự ước tính là hơn 200.000. Trong trận đấu này, họ đã thất bại trước Bolton Wanderers.
Thay đổi tốt hơn
Cho đến những năm 50, West Ham là một câu lạc bộ không quá nổi tiếng, mặc dù có một lượng fan hâm mộ cuồng nhiệt. Mãi cho đến khi Ted Fenton tiếp quản vị trí huấn luyện, mọi thứ mới cũng bắt đầu thay đổi tốt hơn; trong mười một năm gắn bó với câu lạc bộ, Fenton đã biến việc huấn luyện cầu thủ trẻ thành một phần không thể thiếu trong bản sắc của câu lạc bộ. Sự thay đổi trong lối huấn luyện này đã khiến West Ham thành lập một đội bóng tài năng do Bobby Moore lãnh đạo, người sẽ sớm trở thành một trong những ngôi sao bóng đá vĩ đại nhất trong thời đại của ông.
Những năm 60 chứng kiến câu lạc bộ gặt hái được thành công nhờ học viện trẻ của mình. Năm 1964, West Ham giành được giải thưởng lớn đầu tiên của họ bằng cách đánh bại Preston North End trong trận chung kết FA Cup. Năm sau, câu lạc bộ đã đi hết chặng đường trong Cup Winners ‘Cup, vượt xa 1860 Munich trong trận chung kết với hai bàn thắng của Alan Seeley.
West Ham đã giành thêm hai Cup FA vào năm 1975 và 1980 trước khi giảm nhiệt và rút khỏi top những đội bóng hàng đầu. Mặc dù câu lạc bộ được biết đến với lối chơi tấn công, nhưng họ đã không giành được một danh hiệu nào khác trong vài thập kỷ tới. Họ vẫn là một trong những đội bóng hoạt động tích cực của bóng đá Anh, tuy nhiên, chưa bao giờ bị xuống hạng Third Division.
Thời kỳ Ngoại hạng Anh
Trong những ngày đầu ở Ngoại hạng Anh, West Ham có một đội bóng tài năng với các cầu thủ như Rio Ferdinand, Frank Lampard, Michael Carrick và Joe Cole. Câu lạc bộ đã chơi ở vị trí tầm trung trong một vài năm trước khi xuống hạng mùa giải 2002-2003 và trước khi các tài năng đầu quân vào các câu lạc bộ hàng đầu khác. Tuy nhiên, West Ham đã xoay sở để trụ lại ở giải Ngoại hạng Anh vào những năm 2000 chỉ với một vài gián đoạn ngắn ngủi.
Sân vận động Olympic
Năm 2016, West Ham chuyển đến Sân vận động Olympic mới sau hơn hàng trăm năm tại Boleyn Ground. Sân vận động Olympic mới có sức chứa 60.000 người, gần gấp đôi so với Boleyn Ground.
Sân vận động Boleyn Ground.
Logo
Logo có một cặp búa và đinh tán chéo nhau, đây là một phần lịch sử của câu lạc bộ – đã từng hoạt động như một đội công nhân. Lấy ý kiến từ các fan hâm mộ trong một cuộc bỏ phiếu, câu lạc bộ đã quyết định bỏ hình ảnh lâu đài trên logo và thay đổi vị trí chữ cái tên câu lạc bộ ở bên dưới logo vào mùa giải 2016-2017.
Số liệu Giải đấu
Thành tích giải đấu
Tổng danh hiệu: 0
Ngoại hạng Anh: 0
Tham gia lần : 1919-1920
Tất cả mùa giải
Mùa giải | Giải đấu | Vị trí | Điểm | Ghi chú |
2018-19 | Ngoại hạng Anh | 10 | 52 | |
2017-18 | Ngoại hạng Anh | 13 | 42 | |
2016-17 | Ngoại hạng Anh | 11 | 45 | |
2015-16 | Ngoại hạng Anh | 7 | 62 | |
2014-15 | Ngoại hạng Anh | 12 | 47 | |
2013-14 | Ngoại hạng Anh | 17 | 36 | |
2012-13 | Ngoại hạng Anh | 10 | 46 | |
2011-12 | Championship | 3 | 86 | Thăng hạng |
2010-11 | Ngoại hạng Anh | 20 | 33 | Xuống hạng |
2009-10 | Ngoại hạng Anh | 17 | 35 | |
2008-09 | Ngoại hạng Anh | 9 | 51 | |
2007-08 | Ngoại hạng Anh | 10 | 49 | |
2006-07 | Ngoại hạng Anh | 15 | 41 | |
2005-06 | Ngoại hạng Anh | 9 | 55 | |
2004-05 | Championship | 6 | 73 | Thăng hạng |
2003-04 | Championship | 4 | 74 | |
2002-03 | Ngoại hạng Anh | 18 | 42 | Xuống hạng |
2001-02 | Ngoại hạng Anh | 7 | 53 | |
2000-01 | Ngoại hạng Anh | 15 | 42 | |
1999-00 | Ngoại hạng Anh | 9 | 55 | |
1998-99 | Ngoại hạng Anh | 5 | 57 | |
1997-98 | Ngoại hạng Anh | 8 | 56 | |
1996-97 | Ngoại hạng Anh | 14 | 42 | |
1995-96 | Ngoại hạng Anh | 10 | 51 | |
1994-95 | Ngoại hạng Anh | 14 | 50 | |
1993-94 | Ngoại hạng Anh | 13 | 52 | |
1992-93 | 1st Division | 2 | 88 | Thăng hạng |
1991-92 | 1st Division | 22 | 38 | |
1990-91 | 2nd Division | 2 | 87 | Thăng hạng |
1989-90 | 2nd Division | 7 | 72 | |
1988-89 | 1st Division | 19 | 38 | Xuống hạng |
1987-88 | 1st Division | 16 | 42 | |
1986-87 | 1st Division | 15 | 52 | |
1985-86 | 1st Division | 3 | 84 | |
1984-85 | 1st Division | 16 | 51 | |
1983-84 | 1st Division | 9 | 60 | |
1982-83 | 1st Division | 8 | 64 | |
1981-82 | 1st Division | 9 | 58 | |
1980-81 | 2nd Division | 1 | 66 | Thăng hạng |
1979-80 | 2nd Division | 7 | 47 | |
1978-79 | 2nd Division | 5 | 50 | |
1977-78 | 1st Division | 20 | 32 | Xuống hạng |
1976-77 | 1st Division | 17 | 36 | |
1975-76 | 1st Division | 18 | 36 | |
1974-75 | 1st Division | 13 | 39 | |
1973-74 | 1st Division | 18 | 37 | |
1972-73 | 1st Division | 6 | 46 | |
1971-72 | 1st Division | 14 | 36 | |
1970-71 | 1st Division | 20 | 34 | |
1969-70 | 1st Division | 17 | 36 | |
1968-69 | 1st Division | 8 | 44 | |
1967-68 | 1st Division | 12 | 38 | |
1966-67 | 1st Division | 16 | 36 | |
1965-66 | 1st Division | 12 | 39 | |
1964-65 | 1st Division | 9 | 42 | |
1963-64 | 1st Division | 14 | 40 | |
1962-63 | 1st Division | 12 | 40 | |
1961-62 | 1st Division | 8 | 44 | |
1960-61 | 1st Division | 16 | 36 | |
1959-60 | 1st Division | 14 | 38 | |
1958-59 | 1st Division | 6 | 48 | |
1957-58 | 2nd Division | 1 | 57 | Thăng hạng |
1956-57 | 2nd Division | 8 | 46 | |
1955-56 | 2nd Division | 16 | 39 | |
1954-55 | 2nd Division | 8 | 46 | |
1953-54 | 2nd Division | 13 | 39 | |
1952-53 | 2nd Division | 14 | 39 | |
1951-52 | 2nd Division | 12 | 41 | |
1950-51 | 2nd Division | 13 | 42 | |
1949-50 | 2nd Division | 19 | 36 | |
1948-49 | 2nd Division | 7 | 46 | |
1947-48 | 2nd Division | 6 | 46 | |
1946-47 | 2nd Division | 12 | 40 | |
1939-46 | – | – | – | Thế chiến II |
1938-39 | 2nd Division | 11 | 44 | |
1937-38 | 2nd Division | 9 | 42 | |
1936-37 | 2nd Division | 6 | 49 | |
1935-36 | 2nd Division | 4 | 52 | |
1934-35 | 2nd Division | 3 | 56 | |
1933-34 | 2nd Division | 7 | 45 | |
1932-33 | 2nd Division | 20 | 35 | |
1931-32 | 1st Division | 22 | 31 | Xuống hạng |
1930-31 | 1st Division | 18 | 36 | |
1929-30 | 1st Division | 7 | 43 | |
1928-29 | 1st Division | 17 | 39 | |
1927-28 | 1st Division | 17 | 39 | |
1926-27 | 1st Division | 6 | 46 | |
1925-26 | 1st Division | 18 | 37 | |
1924-25 | 1st Division | 13 | 42 | |
1923-24 | 1st Division | 13 | 41 | |
1922-23 | 2nd Division | 2 | 51 | Thăng hạng |
1921-22 | 2nd Division | 4 | 48 | |
1920-21 | 2nd Division | 5 | 48 | |
1919-20 | 2nd Division | 7 | 47 |
Ghi chú: Mùa giải 1939-40 đã bị bỏ sau ba vòng và do đó không được đề cập.
>>> Xem thêm bài viết về câu lạc bộ Rangers